Tuesday, July 19, 2016

Trang bị quân đội thời Nguyễn

Trang phục quân đội thời Nguyễn 

Từ thời chúa Nguyễn trang phục dân gian và quân đội đã trải qua sự biến đổi tới thời Nguyễn thì trang phục quân đội không còn xuất hiện bộ trang phục Giáp trụ hạng nặng nữa mà thay vào đó chủ yếu quan viên ban võ mặc áo Mãng Lan đội mũ Hổ đầu. Binh lính cũng không còn cởi trần đóng khố như thời Lê Trung Hưng.
Năm 1835, Thái Đình Lan trong "Hải Nam tạp trứ" mô tả : "Lính cấp dịch ở tỉnh gọi là tỉnh binh đội nón nứa, nón nhỏ chỉ đủ để che đầu, quết sơn màu vàng, chỏm cắm lông gà, áo dùng loại dệt len màu đỏ, viền màu lục, ống tay màu lục. Lính ở phủ, huyện gọi là phủ binh, huyện binh, đội nón quyết sơn màu lục, màu đen, cắm lông gà, áo dùng vải đen, viền đỏ, ống tay màu đỏ."

Các dòng mô tả trên hoàn toàn khớp với các tranh vẽ binh lính Việt Nam do người phương Tây vẽ đầu thế kỷ 20. 

Trang phục dân thường thời Nguyễn.

D) Trang phục dân thường thời Nguyễn

Trong phần trang phục dân thường này mình sẽ không nói nhiều về các dạng trang phục cụ thể vì nhìn chung trang phục dân thường thời Nguyễn là dạng trang phục lịch sử quen thuộc nhất với chúng ta, trọng tâm sẽ là lý giải sự xuất hiện của các dạng trang phục thời Nguyễn.



Ngược dòng lịch sử vào năm 1545 Nguyễn Hoàng đã xin vào trấn thủ vùng Thuận Hóa. Kể từ đó các chúa Nguyễn đã ra sức tạo lập cơ đồ riêng độc lập với Đàng Ngoài và nuôi mưu đồ xưng hùng xưng bá.

Nếu chỉ xét riêng về trang phục thì nhìn chung trước cuộc cải cách của chúa Nguyễn Phục Khoát thì trang phục của người Đàng Trong gần như trang phục Đàng Ngoài của chúa Trịnh, đó là nếu chỉ xét các dạng trang phục của người Kinh thuộc khu vưc nông thôn và thành thị Đàng Trong thôi (Xin xem lại phần trang phục dân thường thời Lê Trung Hưng để biết rõ hơn).
Tuy nhiên Đàng Trong là khu vực mới khai phá với tính chất đa sắc tộc hơn hẳn Đàng Ngoài nên các dạng trang phục của người dân Đàng Trong cũng rất đa dạng, có sự ảnh hưởng từ dạng trang phục người Chăm, của người Thượng vùng Tây Nguyên...

Tuy nhiên tới năm 1744 vào đời chúa Nguyễn Phúc Khoát với tâm lý muốn độc lập hoàn toàn tạo một cõi giang sơn riêng biệt, bên cạnh các cải cách về chính trị - xã hội ông cũng tiến hành cải cách trang phục nhằm xóa bỏ "Thói tục hủ lậu" của Đàng Ngoài
Cuộc cải cách trang phục này rất lớn và có tác động sâu sắc tới xã hội Đàng Trong
Trong "Phủ Biên tạp lục" Lê Qúy Đôn có viết:
"Năm thứ 5 niên hiệu Cảnh Hưng (1744), Hiểu quốc công (Chúa Phúc Khoát) nhân lời sấm truyền của người Nghệ An rằng 8 đời quay về Trung Đô liền nghĩ từ đời Đoan quốc công (Nguyễn Hoàng) đến mình đã vừa đúng tám đời, bèn xưng vương, sai lấy thể chế áo mũ trong sách Tam tài đồ hội làm mô thức lệnh cho các quan võ từ chưởng dinh đến cai đội, quan văn từ quản bộ đến chiêm hậu, huấn đạo đều tuân theo kiểu dang màu sắc quy định, áo đều dùng đoạn màu, người sang dùng Mãng bào co thêu hoa văn sóng nước, mũ trang sức bằng vàng bạc. Lại lệnh cho trai gái hai xứ (Thuận Hóa, Quảng Nam) đổi dùng quàn áo Bắc quốc để tỏ sự thay đổi. Đến phụ nữ đều mặc áo ngắn hẹp tay giống áo nam giới thì Bắc quốc không như vậy. Hơn ba mươi năm người ta đều quen, quên hết cả tục cũ."

Thường phục hoàng hậu, công chúa hậu phi thời Nguyễn.

2) Thường phục 
Theo "Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ" thì áo Nhật Binh được quy định là thường phục cho Hậu Phi, Công chúa.

Áo Nhật Bình có nguồn gốc từ áo Đối Khâm Phi Phong đời Minh là dạng áo Đối Khâm có cổ hình chữ nhật to bản, dùng dây buộc 2 vạt áo 

Trang phục trưởng công chúa thời Nguyễn.

- Trưởng công chúa (Quy chế năm 1808):
+) Mũ: Đội mũ Thất phượng quan với hình dáng cơ bản gần như Cửu phượng quan, làm bằng lông mã vĩ trùm búi tọc sức vàng, 4 khỏa kiều vàng, 1 chiếc sức chân tóc, 7 hình phượng bay, 4 miếng cổ đồ, 2 đóa hoa mai, 4 hoa cúc, 7 hoa mận, 4 trâm hoa, 1 vòng trang sức quanh đỉnh đầu, 1 vòng sức quanh viền mũ, đều đính với 1 miếng tuyến khảo trổ hình phượng, 2 miếng khỏa bản, 1 bộ trâm bạch kim xâu 120 hạt giả châu khảm 230 hạt pha lê. 
+) Y phục: Phượng bào may bằng đoạn bát ti bóng màu hoa xích thêu hình phượng ổ, thường may bằng đoạn Bát ti bóng màu tuyết bạch thêu hình phượng ổ ngũ sắc xen kim tuyến, đai có thân bằng tre thuộc bọc đoạn Bát ti bóng màu hoa xích, sức 18 miếng trang sức vuông dẹt bằng vàng, mặt trang trí cổ đồ, vân phượng lót bằng kính, 1 đôi tất bằng lĩnh bát ti màu tuyết bạch, 1 đôi hài bằng tơ xích vũ thêu phượng.


Triều phục và lễ phục của hoàng thái hậu và hoàng hậu thời Nguyễn.

C) Trang phục hậu phi

1) Triều phục

Triều phục ở đây không phải là trang phục của hậu phi mặc để lên triều mà thực tế là cách gọi của nhà Nguyễn về lễ phục
Theo Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ thì quy định nhà Nguyễn về Triều phục của hậu phi và công chúa như sau

- Hoàng Thái hậu: 
+) Mũ đội: Cửu Phượng quan, thân mũ làm bằng lông mã vĩ, trùm búi tó, sức 9 hình phượng múa rồng bay, khảm 9 lạp bổn, 1 miếng vân hoa bó tóc, 1 bác sơn vàng, 12 cánh hoa bướm, 4 trang sức trâm, 2 cành hốt phía trước, 1 vòng liên đằng bọc tóc, 4 đóa hoa mai, 2 đoạn liên đằng trang sức chân tóc, 1 miếng khỏa kiều đằng sau, phô hình phượng nạm vàng một đoạn chỉ, 4 thân trâm bạch kim xâu chuỗi thùy anh, 198 hạt chân trâu cỡ nhỏ, khảm 235 hạt pha lê các loại.
Nghạch cân làm bằng đoạn Bát ti màu thiên thanh lót lĩnh đại tào màu vàng chính sắc sức 4 khuyên vàng, 1 dải thao tơ. Mũ được phép khảm gương và xâu thêm ngọc châu bao nhiêu tùy ý thích của Hoàng thái hậu.

+) Y phục: Phượng bào bằng sa mát màu vàng chính sắc, thêu chữ Thọ ngũ sắc gia kim, hoa, sóng nước xen kẽ kết san hô, gương, lôi trừu màu hoa xích và sa mát thêu hoa. Thường làm bằng đoạn Bát ti bóng màu hoa xích thếu phượng ổ, hoa, sóng nước xen kẽ kết gương Tây. Viền đoạn gấm nền vàng liên đằng, lót sa Hoàng quế, nối liền áo lụa trắng. Bít tất làm bằng lĩnh bóng màu tuyết bạch, lót trừu bóng màu hoa xích, viền cổ bít tất có 2 dây thao làm bằng trừu bóng màu hoa xích. Hài làm bằng tơ lông vũ màu vàng chính sắc thêu phượng xen kẽ kết san hô, trân châu, gương của Tây.


Quy chế bổ phục quan lại thời Nguyễn.

3.2) Quy chế Bổ phục

Quy chế Bổ phục của nhà Nguyễn tiếp thu các đặc sắc từ quy chế bổ phục của nhà Lê Trung Hưng đồng thời tham khảo quy chế Bổ phục Minh - Thanh đương thời .

Theo Khâm Định Đại Nam hội điển sự lệ thì quy chế Bổ phục nhà Nguyễn như sau (Hình minh họa mình không bổ sung thêm vì đã có ở bài thời Lê Sơ rồi) 

- Hoàng Thái tử: Áo thêu rồng 5 móng
- Hoàng tử: Rồng 4 móng 


Quan Văn:
- Nhất tới Nhị phẩm: Tiên hạc
- Tam phẩm: Cẩm Kê
- Tứ phẩm: Khổng tước
- Ngũ phẩm: Vân nhạn
- Lục phẩm: Bạch nhàn 
- Thất phẩm: Lộ tư
- Bát phẩm: Khê xích (Chim uyên ương đỏ)
- Cửu phẩm: Liêu thuần


Quan Võ:
- Nhất phẩm: Kỳ Lân
- Nhị phẩm: Bạch trạch
- Tam phẩm: Sư tử
- Tứ phẩm: Hổ 
- Ngũ Phẩm: Báo
- Lục phẩm: Hùng (gấu)
- Thất phẩm Bưu (hổ con)
- Bát phẩm: Hải mã
- Cửu phẩm: Tê ngưu 

Thường phục quan lại thời Nguyễn - phần 2.

Mũ Hổ Đầu

Mũ Hổ Đầu là dạng mũ đặc trưng dành cho võ quan nhà Nguyễn, theo quy chế năm 1804 thì quan Võ từ nhất tới Tam phẩm đội mũ Hổ Đầu với thường phục có Bổ Tử là Kỳ Lân, Bạch Trạch, Sư Tử


Đồ giải 1 mũ Hổ Đầu (Tranh vẽ của họa sĩ Tôn Thất Sa)
1) Bác sơn vàng
2) Hoa vàng
3) Giao long
4) Thùy văn
5) Hổ kỳ
6) Nhiễu tuyến
7) Thùy anh
8) Cổ đồ